Ngày 19/10, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trưởng Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp chủ trì Hội nghị giao ban Ban Chỉ đạo về tình hình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020, năm 2021 đến nay và nhiệm vụ, giải pháp
Cơ hội và thách thức. Với sự phát triển mạnh mẽ các công nghệ mới của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) hay công nghiệp ICT được hiểu là công nghiệp công nghệ số. Nhằm tận dụng và khai thác tiềm năng ngành công
Nền kinh tế - xã hội Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ do ảnh hưởng của dịch Covid-19, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo, ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị với phương châm: "chống
SLP Việt Nam. hạ tầng logistics. Đánh giá của bạn: Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức. Bạn đang đọc bài viết Sự khác biệt của SLP tại chuyên mục Doanh nghiệp của Báo Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin
Bên cạnh những cơ hội, thời cơ cho phát triển các doanh nghiệp ở Việt Nam trong nền kinh tế số thì những khó khăn, thách thức cũng không nhỏ. Thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý, thiếu công nghệ và nhân lực công nghệ thông tin có trình độ cao; năng lực tổ chức, triển
. Thời gian qua, DNVVN là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có DN, chủ yếu là các DNNVV đăng ký mới với số vốn đăng ký tỷ đồng, đưa tổng số các DN trong cả nước lên DN với tổng số vốn đăng ký trên tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243 người có 1 DN đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu phát triển KTXH và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 DN trên 20 người dân và so với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp [47]. Sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có một số đặc điểm sau - Số lượng DN ngoài quốc doanh, mà phần lớn trong số đó là DNVVN tăng lên nhanh chóng, trong khi khu vực kinh tế tập thể và DN nhà nước đang được sắp xếp lại theo xu hướng giảm về số lượng. Loại hình doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình khác trừ nhóm hộ kinh doanh cá thể. Theo thống kê, chỉ có khoảng gần 6% tổng số DN ngoài quốc doanh thành lập trước năm 1990, còn lại là ra đời trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay [43-tr36]. - Khu vực DNVVN ngoài quốc doanh trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 8,4%/năm 2006 - 9,3%/năm 2007, cao hơn mức trung bình của cả nước năm 2006 8,23; năm 2007 8,48 [41]. Điều đó phản ánh tiềm năng của khu vực DNVVN đang được huy động và phát huy. - Thực tế cho thấy, trong những năm qua các nhà đầu tư chủ yếu tập trung đầu tư vào các ngành ít vốn, thu hồi vốn nhanh như thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch. Chỉ có khoảng hơn 30% vốn đầu tư được dành cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và công nghiệp chế biến. Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp chế biến ra đời và phát triển nhanh một phần không nhỏ do chính sách đầu tư mạnh của Nhà nước vào xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, văn phòng làm việc, các khu đô thị, đường giao thông, điện,… - Thủ tục thành lập DN đơn giản, qui mô vốn đăng ký của DN mới thành lập giảm đi, nhất là đối với DNTN và công ty TNHH. Do đó tỷ lệ DNVVN trong tổng số các DN ngoài quốc doanh mới thành lập ngày càng lớn. - Như đã đề cập ở trên, có thể khẳng định rằng DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Do vậy, hỗ trợ DNVVN phát triển cũng được coi là một yêu cầu cấp thiết, vì điều này không chỉ có lợi cho DN, mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội. - Quá trình tồn tại và phát triển của các DNVVN cho thấy loại hình DN này còn nhiều non kém, yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như đã đề cập ở trên năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, vốn ít,... Vì vậy, để các DN này phát huy được vai trò của mình, nhất thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa, có nhiều vấn đề mà DN không thể tự mình giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực,... Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho DNVVN đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy chính sách hỗ trợ của Nhà nước không chỉ có lợi cho DN, mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó được thể hiện trên các mặt sau + Đầu tiên, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các DN là cách thức để nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. + Hỗ trợ DN là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước, thay vì đầu tư trực tiếp để thành lập các DN nhà nước. Bằng những chính sách như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ đào tạo nhân lực,.. Nhà nước có thể định hướng phát triển các DNVVN, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp, nâng cao đời sống cho người dân. Mặt khác góp phần tăng tính hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước. Thay vì chỉ thành lập mới được một số ít DN nhà nước, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho nhiều DN khởi nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có các DNVVN. + Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn, vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước.
Doanh nghiệp đang hoạt động tăng bình quân mỗi năm 7,4%Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp Bộ Kế hoạch và Đầu tư,tính đến thời điểm 31/12/2020, cả nước có doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 7% so với cùng thời điểm năm 2019. Tính theo khu vực kinh tế, tại thời điểm 31/12/2020, có doanh nghiệp đang hoạt động trong khu vực dịch vụ, chiếm 66,8% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp của cả nước, tăng 6,5% so với cùng thời điểm năm 2019. Khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, chiếm 31,8%, tăng 7,8%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, chiếm 1,4%, tăng 13%. Xét theo địa phương, có 38/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động thời điểm 31/12/2020 so với thời điểm 31/12/2019 cao hơn bình quân cả nước 7%,trong đó Gia Lai tăng 16,3%; Ninh Thuận tăng 15,3%; Bình Phước tăng 14,2%; Đắk Lắk tăng 13,8%; Trà Vinh tăng 13%; Bắc Ninh tăng 12,5%; Kon Tum và Hậu Giang cùng tăng 11,9%… Có 25/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động thời điểm 31/12/2020 so với thời điểm 31/12/2019 thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có duy nhất tỉnh Bắc Kạn có số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2020 giảm so với cùng thời điểm năm 2019, giảm 1,6%. Một số địa phương có số doanh nghiệp đang hoạt động năm 2020 cao, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, chiếm 31,4% số doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước, tăng 6,3% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, chiếm 20,4%, tăng 6,4%; Bình Dương có doanh nghiệp, chiếm 4,3%, tăng 10,2%; Đồng Nai có doanh nghiệp, chiếm 3,0%, tăng 8,4%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, chiếm 2,9%, tăng 4,9%; Hải Phòng doanh nghiệp, chiếm 2,5%, tăng 1,4%… Bình quân giai đoạn 2017-2020, cả nước có doanh nghiệp đang hoạt động, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 7,4%. Chia theo khu vực kinh tế thì bình quân mỗi năm có doanh nghiệp đang hoạt động trong khu vực dịch vụ, chiếm 66,6% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp của cả nước, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 7,8%. Khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, chiếm 31,9%, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 6,8%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 4,6%. Theo địa phương, có 26/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017-2020 cao hơn bình quân cả nước 7,4%,trong đó Bình Dương tăng 14,1%; Bắc Ninh tăng 14,0%; Bình Phước tăng 13,1%; Ninh Thuận tăng 12,3%; Bắc Giang tăng 11,6%… Có 37/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017 - 2020 thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có 3/63 địa phương có xu hướng giảm số doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017-2020 Bắc Kạn giảm 2,6%; Lai Châu và Hải Phòng cùng giảm 0,3%. Một số địa phương có số doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017 - 2020 cao, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, chiếm 31,6% số doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước; Hà Nội có doanh nghiệp, chiếm 20,4%; Bình Dương có doanh nghiệp, chiếm 4%; Đồng Nai có doanh nghiệp, chiếm 2,95%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, chiếm 2,9%; Hải Phòng doanh nghiệp, chiếm 2,8%. TP. Hồ Chí Minh có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động cao nhấtThống kê của Sách Trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2021 cho thấy, năm 2020, bình quân cả nước có 8,3 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 27,6 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 20,2 doanh nghiệp; Hà Nội có 20,1 doanh nghiệp; Bình Dương có 13,5 doanh nghiệp; Hải Phòng có 9,8 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 9,4 doanh nghiệp; Khánh Hòa và Bắc Ninh cùng có 9 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó những địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp nhất cả nước gồm Hà Giang có 1,4 doanh nghiệp; Sơn La có 1,6 doanh nghiệp; Điện Biên có 1,7 doanh nghiệp; Tuyên Quang có 1,8 doanh nghiệp; Bắc Kạn có 1,9 doanh nghiệp; Yên Bái có 2,1 doanh nghiệp; Cao Bằng và Sóc Trăng cùng có 2,2 doanh chung giai đoạn 2017-2020, bình quân cả nước có 7,7 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 26,3 doanh nghiệp; Đà Nẵng và Hà Nội cùng có 19,1 doanh nghiệp; Bình Dương có 12,6 doanh nghiệp; Hải Phòng có 10,1 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 8,7 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 8,5 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 8,1 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó những địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp nhất cả nước gồm Sơn La và Hà Giang cùng có 1,4 doanh nghiệp; Điện Biên và Tuyên Quang cùng có 1,7 doanh nghiệp; Cao Bằng, Trà Vinh, Yên Bái và Sóc Trăng cùng có 1,9 doanh nghiệp. Nếu xét theo mật độ dân trong độ tuổi lao động, năm 2020, bình quân cả nước có 16,8 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 56,4 doanh nghiệp; Hà Nội có 44,4 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 44 doanh nghiệp; Bình Dương có 21,4 doanh nghiệp; Hải Phòng có 21,3 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 20,2 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 18,4 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 18,2 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có 2/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động thấp hơn 3 doanh nghiệp Hà Giang có 2,6 doanh nghiệp; Sơn La có 2,8 doanh chung giai đoạn 2017-2020, bình quân cả nước có 15,1 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 53,7 doanh nghiệp; Hà Nội có 41,9 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 39,5 doanh nghiệp; Hải Phòng có 21,3 doanh nghiệp; Bình Dương có 20,9 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 17,8 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 16,8 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 16,7 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó thấp nhất là các địa phương Hà Giang có 2,4 doanh nghiệp, Sơn La có 2,6 doanh nghiệp, Tuyên Quang có 3,0 doanh nghiệp và Điện Biên có 3,1 doanh năm bình quân có thêm hơn doanh nghiệp Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp thành lập mới, giảm 2,3% về số doanh nghiệp so với năm 2019. Xét theo khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp thành lập mới nhiều nhất với doanh nghiệp, giảm 7,6% số doanh nghiệp so với năm 2019; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 10,2%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, tăng 30,1%. Theo địa phương, có 36/63 địa phương có số doanh nghiệp thành lập mới tăng so với năm 2019; trong đó Cao nhất là Gia Lai tăng 68,8%; Sóc Trăng tăng 47,3%; Hậu Giang tăng 44,5%; Đắk Nông tăng 39,5%… Có 26/63 địa phương có số doanh nghiệp thành lập mới năm 2020 giảm so với năm 2019, trong đó Giảm nhiều nhất là Đà Nẵng giảm 20,9%; Thái Bình giảm 19,8%; Quảng Ngãi giảm 17,9%; Quảng Nam giảm 13,6%… Duy nhất có Cao Bằng có số doanh nghiệp thành lập mới năm 2020 bằng với năm 2019. Đáng chú ý, tình hình đăng ký doanh nghiệp thành lập mới tại một số địa phương có quy mô doanh nghiệp lớn năm 2020 đều giảm so với 2019 như Thành phố Hồ Chí Minh giảm 7,5%; Hà Nội giảm 5,7%; Hải Phòng giảm 2,6%; Bình Dương giảm 0,8%; Bắc Ninh giảm 0,6%; riêng Đồng Nai tăng 2,9%.Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 hàng năm cả nước có doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 1,5 triệu tỷ đồng, tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 7,3%. Khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 nhiều nhất với doanh nghiệp, tăng 53,1% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015 trong đó, ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác có số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 nhiều nhất với doanh nghiệp, tăng 43,3% so với giai đoạn 2014 - 2015; trong khi ngành kinh doanh bất động sản có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 nhanh nhất khu vực này, tăng 357,5%, đạt bình quân doanh nghiệp thành lập mới mỗi năm; khu vực công nghiệp và xây dựng có bình quân doanh nghiệp thành lập mới, tăng 49,4%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có bình quân doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,6%. Theo địa phương, có 23/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 cao hơn bình quân chung cả nước 51,3%; trong đó có 3 địa phương có tốc độ tăng trên 100% gồm Thanh Hóa tăng 154,7%; Bắc Giang tăng 118,9%; Bắc Ninh tăng 100%. Có 40/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 thấp hơn bình quân chung cả nước, trong đó có 3 địa phương có tốc độ tăng dưới 20% gồm Đắk Nông tăng 8,2%; Cà Mau tăng 13,2%; Điện Biên tăng 18,3%. Số doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục tập trung ở một số địa phương là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước Thành phố Hồ Chí Minh đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 46,1% so với giai đoạn 2014-2015; Hà Nội đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 49,4%; Bình Dương đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 88,2%; Đà Nẵng đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 67,6%; Thanh Hóa đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 154,7%. Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng mạnh Năm 2020 có doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2019. Đây là năm có số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cao nhất trong giai đoạn 2016 - 2020. Tính theo khu vực kinh tế, có doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ quay trở lại hoạt động, tăng 12,5% so với năm 2019; có doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng, tăng 10,5% và 777 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 8,8%. Theo địa phương, có 6/63 địa phương có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2020 trên 1000 doanh nghiệp gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 14,9% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 24,5% so với năm 2019; Hải Phòng có doanh nghiệp, tăng 69,6% so với năm 2019; Thanh Hóa có doanh nghiệp, tăng 11,4% so với năm 2019; Đà Nẵng có doanh nghiệp, tăng 8,3% so với năm 2019; Bình Dương có doanh nghiệp, tăng 29,6% so với năm 2019. Có 5/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2020 so với 2019 trên 50% gồm Đắk Nông tăng 127,5%; Hải Phòng tăng 69,6%; Thái Nguyên tăng 64,5%; Vĩnh Long tăng 59,3%; Đồng Tháp tăng 54%. Có 25/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2020 giảm so với năm 2019 gồm Ninh Bình giảm 61,5%; Lai Châu giảm 46,2%; Hà Giang giảm 41,2%; Kon Tum giảm 35,8%; Bạc Liêu giảm 30,1%...Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 mỗi năm cả nước có doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 84,9% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Theo khu vực kinh tế, bình quân giai đoạn này khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân hàng năm đạt cao nhất với doanh nghiệp, tăng 91,1% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 73,7%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 695 doanh nghiệp, tăng 58,3%. Theo địa phương, giai đoạn này có 7/63 địa phương có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân trên 1000 doanh nghiệp và có tốc độ tăng cao so với giai đoạn 2014 - 2015 gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 60,8%; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 80,2%; Hải Phòng có doanh nghiệp, tăng 126,0%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, tăng 78,3%; Bình Dương có doanh nghiệp, tăng 230,7%; Thanh Hóa có doanh nghiệp, tăng 269,1%; Đồng Nai có doanh nghiệp, tăng 70,4%... Có 2/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm so với giai đoạn 2014 - 2015 gồm Đồng Tháp giảm 50,6%; Trà Vinh giảm 43,6%.Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp giải thểTrong năm 2020, tổng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký trên phạm vi cả nước là doanh nghiệp, tăng 62,2% so với năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, mỗi năm cả nước có doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký, tăng 110,5% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Khu vực dịch vụ có số lượng doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tạm ngừng kinh doanh có đăng ký nhiều nhất với doanh nghiệp, chiếm 70,3% số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế, tăng 113,5% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 103,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 430 doanh nghiệp, tăng 100,7% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 mỗi năm số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký ít hơn số doanh nghiệp quay lại hoạt động, chỉ bằng 84,4%; tỷ lệ này thấp nhất ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, với 61,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng với 80,5%; khu vực dịch vụ với 86,8%. Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp giải thể, tăng 3,7% so với năm 2019; số lượng doanh nghiệp giải thể bằng 12,9% so với số lượng doanh nghiệp thành lập mới. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, mỗi năm cả nước có doanh nghiệp giải thể, tăng 58,4% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Theo khu vực kinh tế Khu vực dịch vụ có số lượng doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giải thể nhiều nhất với doanh nghiệp, chiếm 72,9% số doanh nghiệp giải thể của toàn bộ nền kinh tế, tăng 63,9% so với bình quân giai đoạn 2014-2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 45,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 395 doanh nghiệp, tăng 37,6% so với bình quân giai đoạn 2014-2015. Theo địa phương, bình quân giai đoạn 2016-2019, có 2/63 địa phương có trên 1000 doanh nghiệp giải thể mỗi năm, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 66% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 90,2%. Có 51/63 địa phương có số doanh nghiệp giải thể bình quân giai đoạn 2016-2019 tăng so với bình quân giai đoạn 2014-2015; có 12/63 địa phương có số doanh nghiệp giải thể bình quân giai đoạn 2016-2019 giảm so với bình quân giai đoạn chí Doanh nghiệp và Thương mại – Tháng 8/2021-TÀI LIỆU THAM KHẢO* Bộ Kế hoạch và Đầu tư Sách Trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2021, tháng 7/2021;* Cục Quản lý đăng ký kinh doanh Tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 12 và năm 2020, 28/12/2020.
Hà Nội, ngày 3 tháng 11 năm 2021 — Tăng cường hấp thụ, phổ biến công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam - đó là thông điệp chính của hai báo cáo về đổi mới sáng tạo được công bố tại sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức hôm học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt NamBáo cáo "Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam” là sản phẩm của Chương trình Hỗ trợ phân tích và tư vấn của Ngân hàng Thế giới về nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo Việt Nam. Báo cáo được xây dựng theo đặt hàng của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, do Chương trình Đối tác chiến lược Giai đoạn II giữa Chính phủ Úc và Nhóm Ngân hàng Thế giới ABP2 tài trợ. Báo cáo nghiên cứu khung phát triển và chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện tại, phân tích những điểm nghẽn cản trở các doanh nghiệp đổi mới và đề xuất một nghị trình cải cách toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng dẫn dắt bởi đổi mới sáng Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định “Việt Nam sẽ cần những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế để có thể đạt được tham vọng trở thành một nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 và đổi mới sáng tạo sẽ là nền tảng cơ bản trong việc nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, có nhiều cách tiếp cận khác nhau để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và báo cáo này đưa ra những ý tưởng có thể phù hợp cho Việt Nam”.Báo cáo khuyến nghị Việt Nam nên tái cân đối chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mình, chuyển từ tập trung đầu tư tạo ra công nghệ tiên tiến sang thúc đẩy hấp thụ và phổ biến công nghệ giữa nhóm các doanh nghiệp. Sự lan tỏa công nghệ - không chỉ là nghiên cứu và phát triển - có thể mang lại hiệu quả năng suất và chuyển đổi kinh tế đáng kể. Đây chính là điểm mà các can thiệp chính sách và hỗ trợ từ Chính phủ có thể mang lại lợi ích lớn tâm xây dựng năng lực để tận dụng tối đa các công nghệ hiện đại nhất nên là ưu tiên hàng đầu. Việc thu hẹp khoảng cách về kỹ năng của lực lượng lao động - cả chất lượng và số lượng - cũng sẽ rất quan trọng để khai thác toàn bộ sức mạnh của đổi mới sáng phát hiện và khuyến nghị này phù hợp với báo cáo cấp khu vực do Ngân hàng Thế giới thực hiện trước đó với tiêu đề “Đổi mới sáng tạo ở các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á – Yêu cầu cấp thiết”. Báo cáo này đã chỉ ra sự không phù hợp giữa các chính sách về đổi mới sáng tạo và khả năng cũng như nhu cầu của các doanh nghiệp và các tổ chức. Đây cũng là vấn đề phổ biến giữa các quốc gia trong khu vực, một lý do dẫn tới sự tụt hậu so với các nền kinh tế tiên tiến về bề rộng và cường độ sử dụng công nghệ cáo cho rằng việc áp dụng đổi mới sáng tạo sâu rộng hơn nữa có thể giúp các quốc gia vượt lên các thách thức mới để tiếp tục phát triển, kể cả các yếu tố xung đột địa chính trị toàn cầu, đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu và sự sụt giảm đáng kể về tăng trưởng năng suất. Để thúc đẩy đổi mới sáng tạo đòi hỏi một chương trình cải cách toàn diện. Ngoài việc định hướng lại các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phù hợp hơn với năng lực và nhu cầu của doanh nghiệp, các quốc gia cần tăng cường các yếu tố bổ trợ quan trọng cho đổi mới sáng tạo như kỹ năng của người lao động và khả năng tiếp cận tài chính cho các dự án đổi mới sáng mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tếTác động của việc hấp thụ công nghệ cũng được định lượng rõ ràng trong báo cáo “Đổi mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tế” do CSIRO, cơ quan khoa học quốc gia Australia và các đơn vị thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng thực tài trợ bởi Chương trình Aus4Innovation, báo cáo cung cấp các công cụ để đánh giá hiện trạng và tác động của tiến bộ công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Bằng cách áp dụng các mô hình kinh tế vào cơ sở dữ liệu rộng lớn về việc hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố công nghệ đóng góp hơn 50% tổng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn biểu tại sự kiện ra mắt, Bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam, chia sẻ “Australia đã và đang hỗ trợ Việt Nam đưa ra các quyết định chính sách dựa trên cơ sở thực chứng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và báo cáo này là một mốc quan trọng nữa trong quan hệ đối tác của chúng tôi. Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Australia và Việt Nam đã thực hiện báo cáo này trong một năm rưỡi, thu thập và phân tích dữ liệu trong giai đoạn gần 20 năm qua để phát triển hai mô hình kinh tế hiện đại nhằm lượng hóa mức độ đóng góp của tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi hy vọng rằng Bộ Khoa học và Công nghệ có thể vận dụng hai mô hình này trong hoạch định các chính sách về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia trong dài hạn”.Báo cáo là nguồn tham khảo chính sách quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cho thấy tính hiệu quả và nhân tố đổi mới sáng tạo đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế so với vốn và lao động giá vọng cho Việt Nam “Các báo cáo đã chỉ rõ vai trò đóng góp quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế - xã hội ở Việt Nam và con đường để Việt Nam tiến về phía trước, không ngừng hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ sinh thái đổi mới sáng tạo,” Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam ông Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình sáng tạo, truyền bá, ứng dụng tri thức và công nghệ phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững đất nước đến năm 2030 và 2045. Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá cao hỗ trợ của Chính phủ Australia và Ngân hàng Thế giới trong các nỗ lực này và mong muốn có thêm các sáng kiến hợp tác tiếp theo để đưa các khuyến nghị, công cụ hữu ích này vào thực tiễn”.Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng cả về phương diện kinh tế và công nghệ trong những năm gần đây. Vai trò của người lãnh đạo cùng với thể chế mạnh sẽ là chìa khóa để Việt Nam tận dụng cơ hội và tháo gỡ các nút thắt để không ngừng phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
News Release 28 Tháng 4 2021 Read time 5 mins HÀ NỘI, VIỆT NAM 28 tháng 4 năm 2021 — Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi ở mức 6,7% trong năm nay bất chấp sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 ở các quốc gia lân cận, và tăng lên 7,0% trong năm 2022, theo một báo cáo mới đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB. “Tiêu dùng nội địa trì trệ và sức cầu bên ngoài yếu do đại dịch COVID-19 làm giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong năm ngoái, nhưng đà tăng trưởng vẫn tiếp tục mạnh trong năm nay và năm sau, nhờ thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát sự lây lan của virus,” Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam Andrew Jeffries phát biểu. “Nhưng năm nay và năm sau vẫn còn nhiều rủi ro đáng kể, trong đó có sự trở lại của các biến thể virus corona mới và sự chậm trễ trong chương trình vắc-xin của chính phủ.” Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á ADO 2021 nhận định rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp chế biến chế tạo định hướng xuất khẩu, tăng đầu tư và mở rộng thương mại. Đà tăng trưởng được dự báo sẽ tiếp tục, nhờ các chương trình cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và sự tham gia của Việt Nam vào nhiều hiệp định thương mại tự do với hầu hết các nền kinh tế phát triển. Giá dầu thế giới và tiêu dùng nội địa cùng gia tăng, dự kiến sẽ đẩy tỉ lệ lạm phát lên 3,8% trong năm nay và 4,0% trong năm 2022. Sự phục hồi nhanh hơn so với dự kiến ở Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Mỹ sẽ cải thiện đáng kể triển vọng thương mại và tăng trưởng của Việt Nam, báo cáo nhận định. Tuy nhiên, tốc độ triển khai chương trình tiêm chủng COVID-19 không đồng đều trên toàn cầu có thể trì hoãn việc Việt Nam trở lại với mức tăng trưởng mạnh mẽ trước đại dịch, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Đầu tư tư nhân trong nước phục hồi nhanh chóng có thể làm trầm trọng thêm nguy cơ bong bóng tài sản, nếu như tín dụng không được dẫn hướng vào các lĩnh vực sản xuất. Báo cáo còn nhận định rằng Việt Nam có thể duy trì tăng trưởng bao trùm bằng cách làm dịu đi tác động của đại dịch đối với nghèo đói và thu nhập. Báo cáo kêu gọi chính phủ áp dụng một chiến lược bền vững, dài hạn để giúp đỡ cho sinh kế của người nghèo và người dễ bị tổn thương thông qua những biện pháp như đào tạo nghề và cải thiện tiếp cận với tín dụng vi mô cho các doanh nghiệp mới. ADB cam kết đạt tới một khu vực châu Á và Thái Bình Dương thịnh vượng, đồng đều, thích ứng và bền vững, trong khi duy trì nỗ lực xoá đói nghèo cùng cực. Được thành lập năm 1966, ADB thuộc sở hữu của 68 thành viên, trong đó có 49 thành viên trong khu vực. Media Contact Related
Trước yêu cầu phát triển mới, hơn lúc nào hết, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục phát huy vai trò, khẳng định vị thế, góp phần hiện thực hóa khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Có nhiều đóng góp cho nền kinh tế Đội ngũ doanh nhân được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, cùng nhiều chính sách hỗ trợ, tạo động lực đã được ban hành và thực thi, đến nay đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện. Nhiều doanh nhân đã làm rạng rỡ trí tuệ, nghĩa khí, tài năng Việt Nam khi tên tuổi đã vượt ra ngoài đất nước, xếp hạng cùng những doanh nhân lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển không ngừng về số lượng. Tính đến nay, Việt Nam đang có khoảng gần 7 triệu doanh nhân, 860 nghìn doanh nghiệp. Khu vực này cũng đóng góp hơn 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo ra việc làm cho 14,7 triệu lao động, chiếm gần 28% lực lượng lao động của toàn xã hội. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Theo đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW cho thấy Đảng ta đã có sự nhìn nhận, đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới. Đến nay, rất nhiều doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã tạo đột phá trong quản trị doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh để hình thành những tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh với những dự án đầy tham vọng, mang tầm vóc quốc tế, tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như sản xuất ô-tô, hàng không, công nghệ thông tin,... Bên cạnh đó, đội ngũ doanh nhân còn tạo công ăn việc làm, cũng như an sinh xã hội, phục vụ công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh chỉ ra nhiều hạn chế của cộng đồng doanh nhân cần sớm khắc phục như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vẫn ở mức trung bình so thế giới, chưa đạt mục tiêu lọt vào nhóm 3, nhóm 4 của ASEAN,... Việc khơi dậy, phát huy đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam chưa được quan tâm tương xứng, chưa thật sự trở thành nguồn lực phát triển bền vững cho đất nước. Do đó, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục nghiên cứu, có giải pháp mới để xây dựng và phát huy vai trò của mình gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với đó là những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao về nâng cao năng lực, phẩm chất, chất lượng nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân đủ tài, đủ tâm và đủ tầm để đáp ứng được những thay đổi và thách thức ngày càng lớn của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế,... Chủ động, linh hoạt, sáng tạo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan. Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan, nhờ có những chủ trương, chính sách hỗ trợ đúng, trúng của Chính phủ và Quốc hội, sau hơn hai năm chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp đã thích ứng và vực dậy, nắm bắt những cơ hội mới để phát triển. Từ đó, giúp năng lực của đội ngũ doanh nhân là chủ các doanh nghiệp cải thiện rõ rệt. Song cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế số lượng và chất lượng đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, hiệu quả hoạt động chưa cao. Vì vậy, Chính phủ cần có thêm những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển văn hóa doanh nghiệp để trở thành một lợi thế cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu; đẩy mạnh chuyển đổi số, áp dụng công nghệ mới vào mô hình quản trị, phương thức điều hành; đầu tư, nghiên cứu hơn nữa trong sản xuất, kinh doanh để chủ động thích ứng với thị trường. Cùng với đó, trong thời gian tới mong Quốc hội tiếp tục tăng cường tính giám sát nhằm giúp cộng đồng doanh nghiệp có thêm niềm tin trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo sự yên tâm, giảm sự rủi ro, tránh được những biến động bất ngờ trong thể chế, chính sách để bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh luôn an toàn, thuận lợi và ổn định cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu rộng, hiệu quả dựa trên ba trụ cột là con người, tài nguyên thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa, do đó, cần phát huy tối đa năng lực, phẩm chất, trí tuệ của người Việt Nam trong mỗi doanh nhân; xây dựng văn hóa lành mạnh, văn minh, chuyên nghiệp, bình đẳng trong doanh nhân, đặt lợi ích của dân tộc, đất nước lên trên hết; bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn năm 2021-2030 trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra nhiệm vụ, phải phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng; khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất hai triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt từ 60-65%. Điều này thể hiện khát vọng của dân tộc nhưng cũng đặt ra rất nhiều những áp lực, thách thức cho cả hệ thống chính trị. Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công. Để hiện thực khát vọng này, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Tấn Công cho rằng, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân cần chủ động trau dồi thêm kiến thức pháp luật kinh doanh, nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong quản lý, tính chuyên nghiệp; linh hoạt, sáng tạo hơn nữa trong cạnh tranh và hội nhập; từng bước xây dựng văn hóa liêm chính, đạo đức trong kinh doanh, cũng như tạo thêm sự liên kết phát triển chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh sự nỗ lực từ cộng đồng doanh nghiệp, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo; ngăn ngừa doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp; thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từ đó, khơi dậy, khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khát vọng làm giàu chân chính trong xã hội.
sự phát triển của doanh nghiệp việt nam